
Tiến sĩ Dương Tuấn Nghĩa Người giữ hồn văn hóa dân tộc
LTS: Giữa những tầng lớp núi non trùng điệp của vùng Tây Bắc, nơi những bản làng mờ sương nép mình dưới tán rừng già, nơi tiếng khèn Hmông và lời then Tày vẫn ngân vang như những bản giao hưởng của đại ngàn, có một con người đã dành trọn tâm huyết cuộc đời mình để gìn giữ, nâng niu và lan tỏa giá trị văn hóa dân gian – đó chính là Tiến sĩ Dương Tuấn Nghĩa, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai, Ủy viên BCH Hội VHNT Lào Cai, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Dân gian.
Không chỉ là một nhà quản lý văn hóa sắc sảo và tận tụy, ông còn là một học giả sâu sắc, một người say mê văn học dân gian đến độ trở thành tri kỷ với từng câu hát cổ, từng giai điệu mộc mạc và từng phong tục ẩn sâu trong đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số miền núi. Từ sớm, ông đã nhận ra rằng, trong kho tàng văn hóa dân gian đang đứng bên bờ mai một kia là linh hồn, là căn cốt tinh thần của dân tộc – nếu không gìn giữ, đồng nghĩa với đánh mất bản sắc, đánh mất quá khứ và cả tương lai.
Tiến sĩ Dương Tuấn Nghĩa không đến với văn hóa dân gian bằng cái nhìn từ xa của một “nhà nghiên cứu phòng lạnh”, mà ông bước vào, sống cùng, hòa mình và thấm đẫm trong đời sống văn hóa truyền thống của đồng bào. Ông đi đến từng bản làng xa xôi, trò chuyện với những nghệ nhân già nua, nghe họ kể về những tích xưa, những câu chuyện truyền đời chưa từng được ghi chép. Những đêm ngồi bên bếp lửa, lắng nghe tiếng hát ru vọng qua khói lam chiều, ông hiểu rằng từng câu, từng chữ ấy đều là di sản quý báu, không chỉ cần được gìn giữ, mà còn cần được sống và trao truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Không ai ngạc nhiên khi biết rằng ông đã dành hơn hai mươi năm để miệt mài sưu tầm, biên soạn và xuất bản hàng chục công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số ở Lào Cai nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung. Những tác phẩm tiêu biểu như: “Tri thức dân gian và nghi lễ truyền thống trong canh tác nông nghiệp của người Hà Nhì đen thôn Lao Chải, xã Ý Tý (Lào Cai)”, “Nghi lễ tang ma của người Hà Nhì ở Lào Cai”; “Văn hóa dân gian người Xá Phó ở Lào Cai (Tập 1 và 2)”; “Văn hóa dân gian người Mông Xanh ở Lào Cai (tập 1)... Những công trình ấy không chỉ mang giá trị học thuật sâu sắc mà còn là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa dân gian và học thuật, giữa bản làng và thành thị.
Trong vai trò là Ủy viên BCH Hội VHNT Lào Cai, Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Dân gian, ông không chỉ là người dẫn dắt phong trào nghiên cứu, sáng tác mà còn là người kết nối tâm huyết của những nghệ nhân dân gian, những "kho tư liệu sống" với các nhà nghiên cứu trẻ, tạo ra một thế hệ kế thừa biết yêu, biết trân trọng và tiếp bước trên hành trình gìn giữ văn hóa dân tộc. Dưới sự dìu dắt của ông, nhiều hội viên trẻ đã có công trình giá trị, những tác phẩm độc đáo, góp phần làm phong phú thêm diện mạo văn hóa của vùng đất biên cương.
Trong thời đại mà văn hóa truyền thống đang đứng trước nguy cơ bị lấn át bởi những làn sóng hiện đại hóa, toàn cầu hóa, sự hiện diện và cống hiến không mệt mỏi của Tiến sĩ Dương Tuấn Nghĩa là một ngọn đèn bền bỉ, soi sáng cho những ai đang tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc. Ông không chỉ là nhà nghiên cứu, không chỉ là nhà quản lý – ông là người gìn giữ ký ức của dân tộc, là chiếc cầu nối quá khứ với tương lai.
Và có lẽ, hơn tất cả những danh hiệu, học hàm hay chức vụ, điều quý giá nhất nơi ông chính là niềm đam mê cháy bỏng, là trái tim luôn đập vì văn hóa dân tộc, vì lời ca bản làng, vì ánh sáng le lói trong đôi mắt của những nghệ nhân già, những người mà ông luôn xem là thầy, là bạn đồng hành trên hành trình thầm lặng mà cao cả: giữ hồn dân tộc giữa lòng thời đại.
Tạp chí Phansipăng trân trọng giới thiệu đến bạn đọc tác phẩm “Tri thức dân gian trong bảo vệ rừng của người Hà Nhì ở Lào Cai” của Tiến sĩ Dương Tuấn Nghĩa.
TRI THỨC DÂN GIAN TRONG BẢO VỆ RỪNG CỦA NGƯỜI HÀ NHÌ Ở LÀO CAI
TS. Dương Tuấn Nghĩa
Người Hà Nhì ở Lào Cai thuộc nhóm Hà Nhì Đen, sinh sống tập trung chủ yếu ở các xã Ý Tý, A Lù, A Mú Sung và Nậm Pung của huyện Bát Xát, dân số 5.208 người(1). Người Hà Nhì ở Lào Cai là cư dân nông nghiệp, trong một thời gian dài đời sống kinh tế chủ yếu dựa vào phương thức đốt nương làm rẫy và săn bắt hái lượm. Do đó, người Hà Nhì ở Lào Cai rất yêu rừng, coi trọng rừng và luôn xem rừng là người mẹ thiên nhiên quan trọng đã sinh ra họ. Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, rừng núi luôn bao bọc, chở che, nuôi sống họ. Để cuộc sống luôn được yên bình, người Hà Nhì đã hình thành nên cả một hệ thống các tri thức dân gian trong ứng xử với rừng một cách hài hòa, vừa khai thác, vừa bảo vệ sự bền vững của rừng.
1. Tri thức dân gian
“Tri thức dân gian (folk knowledge) là toàn bộ những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân, hình thành và tích lũy trong một quá trình lịch sử lâu dài của cả cộng đồng, thông qua trải nghiệm trong quá trình sản xuất, quan hệ xã hội và thích ứng với môi trường tự nhiên để phù hợp với hiện thực cuộc sống” (2). Tri thức dân gian là những yếu tố linh thiêng và thế tục cùng đồng hành, bao gồm cả siêu nhiên; là những kinh nghiệm được tích lũy từ trong cuộc sống hằng ngày, quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua sự trải nghiệm, hướng dẫn cụ thể… Điều này khác hẳn với tri thức khoa học. Bởi tri thức khoa học lại là sự suy đoán ngắn hạn, trừu tượng, trải qua kiểm tra thực tế và chỉ tính tới thế tục, loại trừ yếu tố siêu nhiên; có tính dự báo và được lưu truyền trong sách vở (3)… Như vậy, tri thức dân gian là loại tri thức được hình thành từ trong thực tế cuộc sống của con người, là những kinh nghiệm được tích lũy từ trong quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên và được bổ sung hoặc lược bớt trong quá trình thích ứng với thực tiễn cuộc sống.
Tri thức dân gian của người Hà Nhì ở Lào Cai là tổng hợp những hiểu biết, những kinh nghiệm được hình thành từ những trải nghiệm thực tế trong quá trình ứng xử với rừng và được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng trí nhớ, bằng truyền miệng, bằng những thực hành xã hội và trong lao động sản xuất… Trải qua mỗi giai đoạn lịch sử, hệ thống tri thức ấy lại tiếp tục được bổ sung hoàn thiện và lược bớt những yếu tố không phù hợp nhằm thích ứng với thực tiễn cuộc sống, với quá trình phát triển chung của xã hội.
2. Tri thức dân gian trong bảo vệ rừng
- Vai trò của rừng trong đời sống cộng đồng người Hà Nhì. Là một cư dân luôn gắn bó với rừng, nên trong suốt quá trình sinh trụ của mình, người Hà Nhì luôn coi trọng vai trò của rừng đối với đời sống của cộng đồng. Rừng là nơi cung cấp cho người Hà Nhì gần như tất cả những gì cần cần thiết trong đời sống, như lương thực, thực phẩm, củi, gỗ, nguồn nước; rừng còn bảo vệ, chở che cho các bản làng được bình yên; rừng còn là nơi thực hành các nghi lễ tâm linh trong tín ngưỡng truyền thống của cộng đồng. Do đó, để bảo vệ rừng, người Hà Nhì đã áp dụng rất nhiều phương thức, từ hương ước thôn bản cho đến quá trình thiêng hóa rừng thông qua việc xác định các khu rừng thiêng, rừng cấm, rừng khai thác chung, rừng chăn thả… của mỗi thôn bản.
- Bảo vệ bằng cơ chế thiêng hóa rừng. Với quan niệm “vạn vật hữu linh”, người Hà Nhì cho rằng các khu rừng, gốc cây, hòn đá, dòng suối, đất ở, muông thú sinh sống trong rừng đều có linh hồn tồn tại và được quản lý bởi các vị thần rừng (mù giê do). Do đó, mỗi bản (phu) truyền thống đều có những khu rừng thiêng, nguồn nước thiêng và ở đấy luôn tồn tại các vị thần (mù giê). Ở chỗ nào cũng có các loại ma lành (nẹ mừ), ma ác (nẹ mà mừ) tồn tại và được thần rừng (mù giê do) quản lý. Người Hà Nhì cho rằng thần rừng (mù giê do) là phúc thần, chuyên tạo phúc cho dân, bảo vệ dân bản, nhưng thần rừng cũng sẵn sàng trừng trị nghiêm khắc với những kẻ có các hành động phá hoại cây rừng, săn bắt thú rừng hoặc những hành động khác làm tổn hại đến các khu rừng thiêng, nơi ngự của các thần. Để không làm cho thần linh tức giận, trừng phạt dân bản, người Hà Nhì đã tự mình thiết lập ra các quy định trong bản quy ước của chung thôn bản nhằm bảo vệ các khu rừng thiêng. Đặc biệt là rừng thiêng (Gạ ma do) được coi là rừng thờ thần bản mệnh của bản.
Với niềm tin sâu sắc vào sự bảo vệ của thần rừng, nên ngay từ khi chọn đất lập làng (phu), người Hà Nhì đã làm lễ chọn các khu rừng thiêng xung quanh làng của mình. Trong mỗi làng của người Hà Nhì đều có 4 khu rừng tâm linh là rừng thờ thần bản mệnh của làng (Gạ ma do), rừng công viên (à gơ la do), rừng thờ thần đất (Thú tỷ), rừng cúng tháng ba (Mu thu do). Mỗi khu rừng ở một vị trí và có chức năng riêng, tương ứng với các chức năng ấy là các vị thần linh theo quan niệm của họ. Bốn khu rừng thiêng này cũng chính là 4 điểm tự tâm linh, nơi thực hành các nghi lễ thiêng trong tín ngưỡng thờ thần tự nhiên của người Hà Nhì.
- Phân loại rừng tự nhiên để bảo vệ và khai thác. Ngoài các khu rừng thiêng này ra, người Hà Nhì còn xác định các khu rừng khác có liên quan trực tiếp đến đời sống của cộng đồng, để từ đấy cùng xây dựng nên những quy định trong việc bảo vệ và khai thác một cách hài hòa, đảm bảo các khu rừng không bị tàn phá, không bị khai thác bừa bãi. Trong đó, có các khu rừng, như: Rừng cấm, đây là khu rừng có chức năng bảo vệ bản làng trước mưa lũ và cũng là khu rừng được các gia đình khai thác củi khô, tre, gỗ về làm nhà khi tổ quản lý rừng cho phép; rừng già, rừng nguyên sinh, rừng đầu nguồn là các khu rừng săn bắt, hái lượm của cộng đồng.
Một trong những nghi lễ cúng rừng của người Hà Nhì đen Y Tý
- Bảo vệ rừng bằng các nghi lễ thiêng:
+ Lễ thờ thần thổ địa (thú tỉ): Khu rừng thường nằm phía cuối bản về hướng Tây và nghi lễ chính được tổ chức vào đêm 30 tết. Người làm lễ đầu tiên là đại diện của dòng họ có công đầu trong việc tìm đất lập làng, sau đó mới đến các gia đình khác trong làng đến làm lễ tạ ơn và cầu mong thần thổ địa che chở cho dân bản được yên lành, mùa màng tốt tươi, chăn nuôi không bị dịch bệnh, con người luôn khỏe mạnh. Sau nghi lễ này, chị em phụ nữ các gia đình sẽ mang ống tre ra dòng nước thiêng của làng để lấy ống nước đầu tiên về nấu ăn cho gia đình để cầu mong sức khỏe và sự may mắn cả năm.
+ Lễ cấm đường (Ga tu tu). Đây là nghi lễ mở đầu cho các nghi lễ thiêng liên quan đến rừng, nguồn nước, đất đai của người Hà Nhì trong năm. Nghi lễ cấm đường (ga tu tu) (ga là cấm, rào; tu tu là đường). Nghi lễ này được tổ chức vào ngày con Hổ (tha no) trong tuần đầu tiên hoặc tuần thứ hai của tháng 1 âm lịch hằng năm. Địa điểm tổ chức nghi lễ này là khu rừng công viên (à gơ la do) của bản. Mục đích tổ chức nghi lễ nhằm thỉnh các loại ma lành (nẹ mừ) về xua đuổi các loại ma ác (nẹ mà mừ) ra khỏi bản, về với các ngọn núi cao, suối sâu và không quay trở lại làm hại nhân dân trong bản. Nghi lễ cấm bản sẽ do hai ông thầy cúng (Gạ ma guy) thực hiện. Sau lễ cấm bản dân bản sẽ tổ chức lễ cúng rừng thiêng Gạ ma do.
+ Nghi lễ cúng rừng thiêng Gạ ma do (“Gạ ma” là con lợn cái, “do” là rừng). Nghi lễ cúng rừng thiêng Gạ ma do được tổ chức tại khu rừng Gạ ma do nằm ở phía phía trên theo hướng Đông, Đông – Nam hoặc Đông - Bắc của mỗi bản. Khu rừng gạ ma do được coi là nơi thờ thần bản mệnh của mỗi bản người Hà Nhì Đen, là nơi thần rừng “gạ ma do khư li”.
Nghi lễ cúng rừng Gạ ma do được tổ chức vào ngày con rồng (lò no) của tuần thứ nhất hoặc thứ hai tháng Giêng nhằm cầu cho mưa thuận, gió hòa, cây trồng tốt tươi, chăn nuôi phát triển, con người khỏe mạnh, dân bản yên vui, không bị dịch bệnh. Do đó, lễ cúng rừng Gạ ma do là nghi lễ quan trọng nhất trong một năm của người Hà Nhì ở Lào Cai.
+ Nghi lễ cúng rừng Mu thu do. Rừng cúng Mu thu do là 1 trong 4 khu rừng thiêng của thôn, nằm ở vị trí thấp hơn khu rừng thiêng Gạ ma do và gần với ruộng nương canh tác của thôn. Nghệ nhân ưu tú Ly Seo Chơ cho biết: Người Hà Nhì có 2 khu rừng được coi là rừng chồng và rừng vợ. Trong đó, rừng cúng Mu thu do là nơi thờ thần vợ, rừng Gạ ma do là nơi thờ thần chồng. Thần chồng là thần nam, chuyên bảo vệ dân bản; thần vợ là thần nữ chuyên bảo vệ mùa màng. Do đó, nghi lễ tổ chức ở rừng Mu thu do là nghi lễ có liên quan trực tiếp đến một mùa vụ mới, chỉ khi nào tổ chức xong nghi lễ ở rừng thiêng Mu thu do thì dân bản mới bắt đầu cày bừa, gieo trồng một mùa vụ mới. Thời gian tổ chức nghi lễ Mu thu do vào ngày con ngựa (mò no) của tháng 3 âm lịch.
Với việc thiêng hóa rừng bằng cách tạo lập các khu rừng thiêng, người Hà Nhì đã thể hiện khá rõ quan niệm của họ về rừng, vai trò của rừng với đời sống cộng đồng. Các khu rừng thiêng không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh, nơi thực hành tín ngưỡng của dân tộc, mà rừng còn giúp bảo vệ tốt hơn cho mỗi thôn bản trước thiên tai.
- Bảo vệ rừng bằng luật tục (hương ước)
“Luật tục là một hình thức của tri thức dân gian được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và ứng xử xã hội, đã được định hình dưới nhiều dạng thức khác nhau, được truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực hành sản xuất và thực hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn, điều chỉnh và điều hoà các quan hệ xã hội, quan hệ con người với môi trường thiên nhiên” (4).
Luật tục của người Hà Nhì là các quy ước quy định các hành vi được cộng đồng cùng thống nhất xây dựng ra, nhằm điều chỉnh các hành vi trong quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Những hành vi được chuẩn hóa theo tập quán truyền thống, tạo thành khuôn mẫu để cả cộng đồng cùng tự nguyện thực hiện. Trong hệ thống các quy ước ấy, quy về bảo vệ và khai thác rừng được cộng đồng đặc biệt quan tâm và được cụ thể hóa bằng những “chế tài” xử phạt hết sức nặng, tạo nên sự nghiêm minh trong thực hiện.
Luật tục trong bảo vệ các khu rừng thiêng của người Hà Nhì đều được cộng đồng tự giác tuân thủ. Họ tin vào sự linh thiêng của các khu rừng cúng của thôn, tin vào sự tồn tại của các vị thần linh (phúc thần) đang trú ngụ tại các khu rừng thiêng, để từ đó họ tự truyền tai nhau không được vi phạm. Đồng hành với niềm tin vào tính thiêng ấy là các “chế tài xử phạt” nghiêm khắc đối với các hành động xâm phạm các khu rừng cấm theo quy định trong luật tục thôn cũng đã khiến cho mọi người phải nghiêm túc thực hiện.
Trong luật tục của các thôn người Hà Nhì đều quy định rõ về số người làm công tác bảo vệ các khu rừng, mỗi năm thay đổi một lần (đảm bảo đại diện các gia đình đều tham gia). Ngoài ra, các thành viên khác trong thôn bản cũng đều là tự nguyện tham gia vào việc giám sát mọi hành động vi phạm đến các khu rừng thiêng để kịp thời báo cho người trông coi và trưởng bản để xử phạt theo quy ước. Các hành động vi phạm vào 4 khu rừng thiêng của thôn như: săn bắn, lấy rau, cắt cỏ, lấy củi, chặt cây, phóng uế… sẽ bị nghiêm khắc xử phạt theo quy ước của thôn là: 36 kg lợn, 32 kg gạo và 32 lít rượu. Ngoài ra còn phải xin lỗi trước dân về hành động vi phạm của mình. Các khoản nộp phạt sẽ được dân bản dùng để mời các gia đình trong bản cùng nhau ăn uống và một phần nhỏ được trích ra để trả công cho hai người trông rừng và người có công phát hiện.
Đối với các khu rừng cấm, rừng chung của thôn sẽ được mở cửa vào những dịp quan trọng, như: Chuẩn bị đón năm mới, chuẩn bị vào mùa vụ cày cấy, thu hoạch, các dịp lễ lớn, trước mùa đông đến… mỗi gia đình một người vào lấy củi, chỉ được chặt củi khô, cây rừng đã chết. Ai chặt cây tươi, cây còn sống thì sẽ bị xử phạt theo quy ước. Những gia đình làm nhà mới, cần tre, gỗ để làm nhà thì xin ban quản lý và trưởng thôn, chỉ được lấy đủ số gỗ, tre cần làm, lấy quá nhiều sẽ bị xử phạt theo quy ước thôn.
Có thể nói, tri thức dân gian trong bảo vệ rừng của người Hà Nhì là sự kết hợp giữa luật tục với tính thiêng đã trở thành “bức tường thành, tấm khiên” vững chắc để bảo vệ tính bền vững của các khu rừng. Điều này đã mang lại cho các thôn bản người Hà Nhì ở Lào Cai sự yên ổn. Trải qua một chặng đường dài trong quá trình phát triển, các thôn bản người Hà Nhì hầu như chưa bao giờ phải gánh chịu sự tàn phá của thiên tai. Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều chế tài xử lý các hành vi vi phạm đến rừng, song các quy định trong luật tục của người Hà Nhì vẫn còn nguyên các giá trị và sự ảnh hưởng trong cộng đồng. Điều đó đã góp phần giáo dục và định hướng cho các hành vi của mọi người theo chuẩn mực chung của xã hội.
Tài liệu tham khảo
1. Dương Tuấn Nghĩa (2012) “Độc đáo nghi lễ hiến trâu trong lễ hội khu già già” của người Hà Nhì ở Lào Cai”, Tạp chí Thế giới di sản số 5/2012, Tr 9-12.
2. Trần Hữu Sơn “Tri thức bản địa của người Hà Nhì ở Việt Nam với vấn đề bảo vệ rừng”. Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần 3, năm 2008.
3. Ngô Đức Thịnh: Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, nxb Chính trị quốc gia, HN 2010, tr 183.
4. Ngô Đức Thịnh (2004) “Thế giới quan bản địa”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4. Tr 3 -15.
Từ khóa :
Quay lạiXem tin nổi bật
Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...