Chiềng Ken xanh

Quốc Hồng

20:02 - 07/02/2025

Sát Tết, tôi trở lại Chiềng Ken. Không khí Tết “bươn chiêng pi mấu” (Tết Nguyên đán) đã rất gần, hiển hiện ở những ngôi nhà sàn dán giấy đỏ trước cửa của đồng bào Tày, những cây “ché lang” (cây trừ tà) cắm trước cửa bếp và chuồng trại gia súc. Các mẹ, các chị chuẩn bị gạo nếp, lá dong xanh gói bánh gù truyền thống, tiếng nói cười rộn vang khắp bản. Xuân này, người dân Chiềng Ken ăn Tết to bởi có niềm vui lớn, xã vừa đạt đủ các tiêu chí Nông thôn mới, hồ sơ đã trình lên, chỉ đợi quyết định chính thức của cấp có thẩm quyền. Vậy là niềm mong mỏi, nỗ lực không ngừng nghỉ của Chiềng Ken đã chạm đích, tạo thế và lực mới cho đất và người nơi đây vươn lên cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc.

Tôi nhớ năm ấy đến Chiềng Ken, Chủ tịch xã Vấn Gia Lâm cứ trăn trở, ruộng đồng bát ngát, nước non dồi dào mà sao dân vẫn nghèo? Toàn xã có đến 200 ha ruộng đất màu mỡ mà độc canh mỗi cây lúa thì chỉ giải quyết được cái ăn là lương thực thôi, chứ chi tiêu trăm thứ trông vào hạt thóc thì sao mà khá, chứ nói gì đến giàu. Đồng đất tuy rộng nhưng Chiềng Ken cũng lắm suối ngòi xen lẫn khe sâu, bị chia cắt đến manh mún, đi lại rất khó khăn. Chỉ từ làng nọ đến làng kia mà phải vượt suối qua ngòi, mất cả buổi vì cách trở. Đi lại khó khăn, đường sá kém nó bó chân, bó tay người Chiềng Ken trong đói nghèo, mãi không thoát ra được. Cái nguyên nhân kìm hãm Chiềng Ken là giao thông kém thì đã rõ, nhưng làm thế nào, bắt đầu từ đâu để làm đường thì là bài toán khó, không dễ giải? Thế rồi chương trình Nông thôn mới đã đến, thổi làn gió mới, làm cái chìa khóa mở thông bế tắc, luẩn quẩn bao năm. Nhà nước hỗ trợ cho không xi măng, cát sỏi, thiết kế và hướng dẫn kỹ thuật; nhân dân hiến đất và góp công sức mở tuyến, đắp nền, đổ bê tông mặt đường. Chỉ sau chừng 4 năm, Chiềng Ken đã cứng hóa hơn 21km đường giao thông liên thôn đến tât cả các thôn bản.

Trước đây, Chiềng Ken tuy khá bằng phẳng, ít núi cao chia cắt như nhiều địa phương khác của huyện Văn Bàn nhưng đi lại rất khó vì nhiều suối ngòi, khe sâu, việc vận chuyển hàng hóa bằng xe cơ giới hạn chế nên kìm hãm sản xuất, giao thương hàng hóa. Người dân muốn bán yến thóc, tạ lợn hay khối gỗ rừng trồng cũng khó, giá thấp, dẫn đến tâm lý chỉ làm ăn cầm chừng, theo kiểu tự cung tự cấp là bằng lòng, thỏa mãn không có động lực mà tiến lên sản xuất hàng hóa. Tôi nhớ ngày ấy đi xe máy xuống các thôn Phúng, Thi, Tằng Pậu, Hát Tình, Đồng Vệ của người Xa Phó biết bao khổ ải, lầy lội, như đánh vật.

Hệ thống đường giao thông ngon lành như luồng sinh khí mới thổi thoáng đầu óc tâm trí người Tày, Hmông, Xa Phó, người Giáy nơi đây, làm thay đổi lối nghĩ cách làm, mở rộng tầm mắt cho họ bước tới. Mạnh nhất là năm 2021-2022, Nhà nước đầu tư vật liệu, dân bỏ công sức làm gọn 9 tuyến đường: Tằng Pậu, Thi, Ken 2, Hát Tình, Khuổi Ún, Chiềng 1+2, Ken 3, Bẻ 1, Bẻ 2, với tổng chiều dài hơn 11 cây số. Hôm thông đường đến Tằng Pậu náo nhiệt, tưng bừng như ngày hội. Người già, phụ nữ, trẻ nhỏ đổ ra đi trên con đường mới mà ngỡ như mơ, đường to rộng, láng nhựa nhẵn mịn chả kém gì Quốc lộ ngoài huyện lỵ. Tiếp đến Chiềng Ken “tấn công” vào những tuyến đường còn lại, với chiều dài hơn 10 cây số, là: Phúng, Bẻ 4 - Dần Thàng, Đồng Vệ... Tổng cộng, người dân Chiềng Ken đã hiến gần 40.000 mét vuông đất vườn, ruộng lúa và đóng góp hàng nghìn ngày công trị giá hơn 26 tỷ đồng để làm đường cho mình đi. Đến nay, hệ thống đường giao thông của Chiềng Ken đã cứng hóa, to rộng như niềm mong ước, xóa đi cái vòng kim cô trói tay buộc chân bao năm rồi. Thế mới biết sức dân là rất lớn, rất mạnh. Chỉ cần khơi thông, chung dòng chảy là cuồn cuộn như triều dâng thác đổ băng qua mọi thác ghềnh dù gian khó đến đâu chăng nữa...

Có đường tốt, đi lại thuận tiện cả bốn mùa như “mạch máu” dẫn sự sống đến tận từng tế bào cơ thể. Cả Chiềng Ken bừng dậy “thay cây đổi con”, liên kết nhóm liên gia theo sở thích, rồi liên kết với doanh nghiệp mà làm ăn, bắt đất đai nhả ra tiền. Đảng ủy xã ra nghị quyết chuyển đổi cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Ruộng đồng Chiềng Ken thuộc loại “thượng đẳng điền”, đất tốt, nguồn nước dồi dào nên tập trung làm cánh đồng 1 giống, canh tác theo phương pháp SRI tiên tiến. “Chúng tôi qui hoạch và khuyến khích bà con canh tác theo cánh đồng một giống, áp dụng phương pháp canh tác lúa cải tiến SRI- đó là chìa khóa để nâng cao năng suất, chất lượng hạt gạo ở địa phương”- Chủ tịch UBND xã Chiềng Ken Vũ Thanh Nguyên chia sẻ. Câu chuyện của Chủ tịch Nguyên về SRI không ngờ lại thú vị như vậy. Đây là phương pháp canh tác lúa được khai nguồn từ Madagascar, những năm 1980, sau đó được Giáo sư Norman Uphoff thuộc Trường đại học Cornell của Mỹ tuyên truyền để áp dụng và nhân rộng ra nhiều nước trên thế giới. SRI gói gọn trong 5 nguyên tắc, đó là: Cấy mạ non; cấy một dảnh vuông mắt và nông; rút nước cạn xen kẽ; làm cỏ sục bùn và bón phân theo nhu cầu của cây. Canh tác lúa theo hệ thống thâm canh lúa cải tiến SRI có cái lợi là “bốn giảm”, đó là: giảm 60-70% lượng giống, giảm 25-30% nước tưới, giảm phân bón và giảm thuốc bảo vệ thực vật, trong khi vẫn bảo đảm năng suất cao và chất lượng sản phẩm vượt trội. Chúng tôi ra cánh đồng Ken 1, ở một vài thửa ruộng cấy sớm, trong nắng xuân, những thân mạ cứng cáp vươn cao trên mặt nước, đón ánh sáng và khí trời, hứa hẹn một mùa vàng bội thu. Tốt nghiệp Đại học Nông lâm Thái Nguyên, anh Đỗ Đình Biên - cán bộ khuyến nông xã còn trẻ nhưng am hiểu SRI như một “chuyên gia” thực thụ: Hiện tại nông dân Chiềng Ken cấy đại trà giống lúa Điện Biên. Áp dụng SRI, nông dân có thể thu được sản lượng cao hơn từ những giống lúa truyền thống, chứa hàm lượng sắt và prô-tê-in cao hơn các giống lúa lai, vì thế giá bán cao hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cho nông dân, và điều quan trọng nhất là “đầu ra” thuận lợi, được người tiêu dùng ưa chuộng, sản phẩm dễ bán. Nghe anh cán bộ khuyến nông xã nói càng hiểu thêm công việc làm nông trong thời buổi thị trường, cần phải biết học hỏi, “bám thắt lưng” người tiêu dùng mà cung ứng sản phẩm chứ không thể manh mún, nhỏ lẻ, duy ý chí được. Đến nay, đã có 190 ha đang thực hiện canh tác SRI toàn phần và bán phần, năng suất lúa bình quân tăng cao hơn khoảng 15-17 tạ/ha, mang lại thu nhập tăng thêm chừng 10-12 triệu đồng/ha. Chỉ tính riêng lúa, Chiềng Ken đạt sản lượng gần 2.400 tấn/năm, không chỉ bảo đảm an ninh lương thực cho địa phương mà còn là nguồn thu nhập ổn định cho bà con nông dân nơi đây. Tôi nghe chuyện cây lúa ở Chiềng Ken mà mừng lắm, vì người Chiềng Ken cần cù, chịu khó đang từng bước đưa khoa học, kỹ thuật vào sản xuất để tạo hiệu quả kinh tế cao hơn từ chính đồng đất quê mình.

Tiếp theo, cây ăn quả có múi theo tay người Chiềng Ken thay thế cây ngô, sắn ở các chân ruộng cao và vùng đất khô cằn, nhiều đá sỏi. Vốn là người lanh lợi, tháo vát, ham làm, chị Triệu Thị Thảo ở thôn Bẻ 2 quyết tâm đưa cây bưởi đường đứng chân trên vùng đất này. Sau gần 6 năm miệt mài “vượt nắng thắng mưa” vợ chồng chị đã biến hơn 4 ha đất gò bãi lắm sỏi đá thành trang trại bưởi ngọt, làm mát xanh cả một vùng đất hoang hóa. Với hàng nghìn cây bưởi đang kỳ thu hoạch cao sản, hàng năm bán ra thị trường khoảng 60 vạn quả bưởi chất lượng OCOP 3 sao, thu về khoảng 1 tỷ đồng. Từ thực tế sống động của chị Thảo, bà con Chiềng Ken tích cực chuyển đổi đất kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả, bưởi rồi cam, xoài đang thế chỗ những chân ruộng cao, đất gò bãi và đồi thấp. Màu xanh cứ thế lan rộng... Đến nay, Chiềng Ken đã có thêm hơn 20 ha bưởi và xoài cát Hòa Lộc. Cây ăn trái đã đứng chân trên đất lúa Chiềng Ken, mở hướng đa canh, gia tăng giá trị trên đồng đất nơi đây.

Xe bon nhanh trên con đường bê tông sáng lên trong mưa xuân nhẹ bay, loang loáng hai bên là những cánh rừng quế xanh ngút ngát. Đón ở đầu nhà sàn, Bí thư chi bộ thôn Bẻ 2 Ngân Ngọc Tăng dẫn luôn ra rừng quế hơn 6 vạn cây của gia đình đều tăm tắp, ken dày nắng không lọt. Đi dưới tán quế thơm ngày xuân lòng lâng lâng nhẹ bẫng. Anh Tăng là người đầu tiên đưa cây quế từ Phong Dụ- Văn Yên (Yên Bái) về bén rễ đứng chân ở thôn Bẻ 2 này. Ngày ấy lặn lội mấy ngày trời xuống Phong Dụ xin bà con người Dao được trăm cây quế, đùm túm mang về trồng rồi chăm như con mà chỉ sống được non nửa. Những cây quế tổ ấy giờ vươn cao tỏa bóng như cổ thụ, xếp hàng như những người lính già trang nghiêm trong vườn nhà. Từ những cây quế ấy, anh Tăng lấy hạt, học cách ươm cây giống để nhân lên hàng nghìn, hàng vạn cây quế phủ xanh những cánh rừng Bẻ 2. Cũng từ những cánh chim đầu đàn như anh Tăng, phong trào trồng quế bùng lên khắp các thôn trong xã. Đảng ủy Chiềng Ken ra nghị quyết, chính quyền sát cánh cùng người dân đưa cây quế lên đồi, vừa tăng độ che phủ vừa tạo việc làm, đem lại nguồn thu bền vững cho bà con. Lòng người khao khát xóa nghèo, cộng hưởng với sự hỗ trợ của Nhà nước đã đưa màu xanh cây quế phủ kín đất trống đồi hoang, trải ngút tầm mắt những cánh rừng. Đến các thôn Bẻ 2, Bẻ 4, Ken 3, Đồng Vệ... không khó gặp những triệu phú quế, với 5-7 ha của dòng họ Lương, như: Lương Văn Tha, Lương Văn Thức, Lương Văn Loan; rồi Ngân Văn Tăng, La Văn Toi... Gần 400 hộ dân của xã có trong tay 486 ha quế xanh ngút mắt, chỉ dăm năm nữa thôi sẽ mang về cho họ hàng chục tỷ đồng. Thật là mừng! Nhưng tôi nghĩ, điều đáng quí hơn là sự thay đổi trong tư duy và cách làm ăn của đồng bào bản địa đã bắt nhịp cùng thị trường, sản xuất cái mình có lợi thế, bán cái người mua cần- đó là nông sản chất lượng cao, sạch, mẫu mã hợp thị hiếu. Quả là một cuộc cách mạng trong sản xuất nông nghiệp ở Chiềng Ken hôm nay.

Cây bưởi ngọt đứng chân trên đồng đất Chiềng Ken.

Tôi lại nhớ năm nào về Chiềng Ken, thấy các mẹ các chị người Tày ai cũng dáng cao, tóc dài mượt đen, da mịn, môi hồng. Phụ nữ Chiềng Ken thể chất khỏe mạnh, ít đau ốm. Có người còn bảo Chiềng Ken là miền gái đẹp của Văn Bàn gạo trắng nước trong. Hỏi ra thì được các “ếm”, các “noọng” bảo rằng là do tắm nước suối Đao, gội đầu bằng nước cây đại bi rất sẵn ở vùng này. Hóa ra cái loài cây tự nhiên mọc hoang dại bên bờ mương, bìa rừng, gò bãi ở Chiềng Ken này lại là thứ thảo dược “thần tiên” với phụ nữ đến vậy. Am hiểu về loài cây thảo dược bản địa này, chàng kỹ sư lâm nghiệp An Văn Tuấn quyết tâm khởi nghiệp ngay trên quê hương mình. Năm 2019, anh thành lập Hợp tác xã Nông lâm nghiệp - Dược liệu Thế Tuấn đầu tư thiết bị, công nghệ chưng cất tinh dầu từ lá cây đại bi hay còn gọi là long não xanh đặc biệt này. Vừa khai thác tự nhiên, vừa phát triển vùng trồng đại bi để có nguồn nguyên liệu ổn định, đủ cung cấp đầu vào cho sản xuất, HTX Thế Tuấn trở thành điểm tựa cho nông dân địa phương bảo vệ và mở rộng diện tích cây đại bi, phủ xanh thêm đất đai Chiềng Ken, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho chính họ. Đón xuân này, chàng kỹ sư trẻ dám bỏ việc ngoài phố lương cao để về quê khởi nghiệp và làm giàu, lại có thêm niềm vui lớn khi có 6 sản phẩm từ cây “thần tiên” đại bi hoang dại và cây tía tô đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao, không chỉ chăm sóc sức khỏe, làm đẹp cho người Việt mà còn bay xa sang thị trường Anh, Pháp, Nhật Bản..., đưa địa danh Chiềng Ken đến với bè bạn muôn phương.

Mưa xuân lất phất bay trong cái rét dịu ngọt, Chủ tịch xã Vũ Thanh Nguyên bảo như thế là tốt tươi cho mùa màng, cây trái. Sau những ngày tháng ngủ đông, gặp mưa nhẹ như tơ và nắng ấm bừng lên là ruộng - vườn - rừng Chiềng Ken lại bật màu xanh, trải dài - tiếp nối - sinh sôi đem no ấm và hạnh phúc đến với đất và người nơi đây. Xuân đã về cùng với Chiềng Ken xanh...!

Q.H

##Nông thôn mới
#Chiềng Ken
#Văn Bàn

Quay lạiXem tin mới

Mời bạn cho ý kiến, quan điểm...

Cùng chuyên mục

vài giây trước

Văn nghệ Lào Cai
/
Trang thông tin điện tử
Giấy phép: 28/GP-TTĐT do Sở Thông tin và Truyền thông cấp ngày 15/01/2024
Chịu trách nhiệm Website:
Nguyễn Thành Long - Phó Chủ tịch Hội VHNT Lào Cai
Địa chỉ:
581, đường Hoàng Liên, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai
0214 384 4820
vannghelaocai@gmail.com
tapchiphansipanglc@gmail.com
Hòm thư góp ý
Bản quyền thuộc về website Văn nghệ Lào Cai. Ghi rõ nguồn khi sử dụng thông tin trang này